Quy trình công nghệ xử lý nước thải nhà máy dệt nhuộm

Nước thải tại nhà máy nhà máy dệt nhuộm phát sinh từ các nguồn sau đây:
-
- Nguồn nước phát sinh từ trong công đoạn sản xuất: công đoạn hồ sợi, rũ hồ, nấu tẩy, nhuộm và hoàn tất.
- Nước thải nồi hơi.
- Nước rửa thiết bị.
- Nước thải từ quá trình làm mát và xử lý bụi trong thiết bị dệt nhuộm.
- Nước thải từ các nhà vệ sinh và từ các khu sinh hoạt của các cán bộ công nhân viên trong nhà máy.
Tất cả các nguồn nước thải phát sinh nói trên sẽ được thu gom lại và chảy tự nhiên nhờ vào trọng lực qua song chắn rác (S01). Song chắn rác này có tác dụng giữ lại các tạp vật thô như giẻ, rác, bao nilon, và các loại vật thải khác nhằm bảo vệ các thiết bị như đường ống, mương dẫn. Các rác thải này được lấy lên định kỳ để làm trống song chắn rác, tránh hiện tượng tắc lọc.
Nước thải sau khi qua song chắn rác sẽ được cho chảy tự nhiên vào mương lắng cặn (B01). Tại mương lắng cặn này, với cấu tạo chuyên biệt, nước thải bị phân tách làm 3 lớp:
-
- Lớp nhẹ nổi trên bề mặt bao gồm: dầu, rác, bọt xốp…
- Lớp trung gian ở giữa mà thành phần chính là nước thải tương đối đồng nhất.
- Lớp cặn lắng dưới đáy bao gồm: bùn, đất, cát…
Lớp nhẹ nổi bên trên cũng như lớp cặn lắng dưới đáy sẽ được hút bỏ định kỳ bằng xe bồn chuyên dụng. Còn lớp ở giữa sẽ chảy tự nhiên nhờ trọng lực sang hố thu (B02).
Tại hố thu (B02), nước thải được bơm lên tấm lọc rác tinh (S02) bởi 1 trong 2 bơm P02.01 & P02.02 (1 bơm chạy, 1 bơm dự phòng và hoạt động luân phiên) sau đó được cho chảy xuống bể điều hòa (B03). Trong nước thải dệt nhuộm chứa nhiều xơ sợi li ti nên tấm lưới lọc rác tinh này được lắp đặt nhằm giữ lại các xơ sợi có trong nước thải. Lưới có kích thước lỗ từ 0.5 đến 1mm để hạn chế tối đa các xơ sợi , huyền phù… bị trôi ra trong quá trình sản xuất. Các vật thải này được lấy ra khỏi bề mặt lưới bằng hệ thống cào để duy trì tác dụng của tấm lọc rác.
Bể điều hòa (B03) cần thiết cho hệ thống xử lý nước thải dệt nhuộm vì lưu lượng và nồng độ biến đổi theo giờ, thời vụ sản xuất. Bể điều hòa có tác dụng:
-
- Điều chỉnh sự biến thiên về lưu lượng của nước thải theo từng giờ trong ngày.
- Kiểm soát pH của nước thải để tạo điều kiện tối ưu cho quá trình xử lý sinh học sau đó.
- Tránh sự biến động về hàm lượng chất hữu cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động của vi khuẩn trong bể xử lý sinh học bằng cách bố trí dàn ống sục khí dưới đáy bể điều hòa với mục đích khuấy trộn, tại đây nước thải được trộn lẫn, làm đồng đều các thành phần (BOD, COD, pH, N, P, Nhiệt độ…).
- Là nơi cố định các độc chất đối với quá trình xử lý sinh học để cho hiệu suất của quá trình này được tốt hơn.
Nước thải từ bể điều hòa sau đó được bơm lên bồn định lượng bởi 2 bơm P03.01 & P03.02, rồi sau đó nước thải sẽ tự chảy xuống bể trung hòa.
Tại bể trung hòa có trang bị hệ châm kiềm/axit để đảm bảo cho pH nước thải luôn duy trì trong khoảng 6.5 đến 7.5 trước khi vào bể kỵ khí. Ngoài ra còn bố trí thêm hệ châm Urê/H3PO4 đảm bảo không gây thiếu hụt dinh dưỡng trong quá trình tổng hợp tế bào của vi sinh vật để cho bể sinh học hoạt động tốt.
Nhờ vào 2 bơm P04.01 & P04.02 (1 bơm chạy, 1 bơm dự phòng và hoạt động luân phiên) nước thải từ bể trung hòa sẽ được bơm vào bể kỵ khí (B06). Tại đây nước thải được phân phối đều trên diện tích đáy bể. Nhờ hỗn hợp bùn yếm khí trong bể mà các chất hữu cơ hòa tan trong nước được hấp thụ, phân hủy và chuyển hóa thành khí. Bọt khí sinh ra bám vào hạt bùn cặn nổi lên trên làm xáo trộn gây ra dòng tuần hoàn cục bộ trong lớp cặn lơ lửng. Khi hạt cặn nổi lên gặp tấm chắn khí, khí sẽ được thoát lên trên và được thu vào hệ thống thu khí metan ở phía trên thành bể, còn cặn rơi xuống dưới. Hỗn hợp bùn, nước đã tách khí đi vào ngăn lắng. Tại đây bùn lắng xuống đáy qua cửa phân phối tuần hoàn lại vùng phản ứng yếm khí, phần dư sẽ được đưa sang bể chứa bùn. Nước ra khỏi bể kỵ khí có hàm lượng chất hữu cơ tương đối thấp được chảy tràn qua bể trung gian thông qua máng thu nước.
Từ bể trung gian 1 (B05) nước thải sẽ được cho chảy tự nhiên qua bể vi sinh hiếu khí.
Tại bể sinh học hiếu khí, các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan chuyển hóa thành bông bùn sinh học – quần thể vi sinh vật hiếu khí, có khả năng lắng dưới tác dụng của trọng lực. Một lượng khí được cung cấp cùng với nước thải chảy liên tục vào bể sẽ được xáo trộn với bùn hoạt tính, cung cấp oxy cho vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ. Trong điều kiện này, vi sinh tăng trưởng sinh khối và các bông bùn hoạt tính dạng lơ lửng trong nước. Hàm lượng bùn và nhu cầu oxy đồng nhất trong toàn bộ thể tích bể.
Nước thải sau khi qua bể sinh học sẽ tự chảy vào bể lắng 2 nhằm tách hỗn hợp nước và bùn hoạt tính. Các bông cặn từ bể vi sinh sẽ tiếp xúc với nhau tạo thành các đám bông cặn lớn và lắng xuống đáy bể lắng. Bùn cặn sau khi lắng được hút từ đáy bể có nồng độ cao sẽ được tuần hoàn một phần vào bể sinh học nhằm duy trì hàm lượng sinh khối đủ cho quá trình chuyển hóa chất hữu cơ của các vi sinh vật. Phần bùn dư còn lại sẽ được đưa về bể phân hủy bùn để thực hiện quá trình phân hủy và nén bùn.
Sau khi ra khỏi bể lắng nước được cho chảy vào bể xử lý màu (B09), rồi từ đây nước thải sẽ được cho chảy tự nhiên nhờ vào trọng lực qua bể khử trùng.
Tại bể khử trùng nước sau khi xử lý vi sinh vẫn còn chứa một hàm lượng vi khuẩn nhất định sẽ được hòa trộn với dung dịch nước chlorine (nồng độ 6-9 ppm) và lưu trong thời gian 30 phút để khử trùng (chủ yếu là vi khuẩn đường ruột coliform). Cuối cùng nước thải đã xử lý sẽ chảy ra hệ thống thoát nước chung của khu vực hoặc tập trung vào bể chứa để tái sử dụng (tưới cây, rửa đường, nuôi cá…).
Hệ thống xử lý bùn bao gồm các công trình đơn vị: bể chứa bùn và máy ép bùn. Bùn dư từ bể lắng được đưa vào bể chứa bùn. Tại đây cùng với thời gian, bùn vi sinh sẽ bị phân hủy thành nước dơ & xác bùn. Nước dơ sẽ được xử lý theo chu trình, còn xác bùn cùng với các cặn lắng khác sau khi nén được cô đặc lại rồi bơm đến máy ép bùn, trên đường đến máy ép, Polymer được châm thêm vào để hỗn hợp kết vón tách nước. Bùn sau khi ép tách nước sẽ được chuyển đến bãi thải của nhà máy. Sau đó bùn này được đem đi xử lý.